“Em hãy làm cây thông xanh nghe em”
(Về một nhà thơ ở Vĩnh Tường)
CAO NGỌC THẮNG
Sau ngày đất nước thống nhất, Bùi Văn Dung từ thành phố mang tên Bác lại ba lô, dép lốp lên chiến trường biên giới phía Bắc. Thời lính chinh chiến ngược xuôi giữa bom rơi đạn nổ, Bùi Văn Dung không chỉ cầm súng. Ở ông còn có loại vũ khí mạnh hơn: nguồn thơ và tình thơ.
Nhà thơ: Bùi Văn Dung
Bùi Văn Dung viết: “Tôi lý giải chiến tranh / Thay cho chiến thuật vũ khí” (Tiểu tựa cho… “ Nhìn ngoài đôi mắt”). Lý giải là công việc không phải nói mà làm được, không phải bất kỳ ai cũng làm được; nói chung là vậy, huống hồ lý giải chiến tranh. Chiến tranh, bên cạnh cảnh chết chóc tang thương, chia lìa đau khổ, còn là chiến lược và chiến thuật, còn là tư tưởng và nghệ thuật. Sự hy sinh đổ máu có thể chia cho các bên tham chiến, kể cả người trực tiếp cầm súng và cộng đồng ở sau; vì thế, dù thắng hay bại thì nhân dân của các bên đều chịu những tổn thất to lớn, lâu dài về vật chất và tinh thần do hậu quả và di chứng nặng nề từ chiến tranh đem lại. Nhưng tư tưởng và nghệ thuật chiến tranh không vậy. Nó có ranh giới rõ ràng giữa bên xâm lược và bên bị xâm lược. Nó không có cùng mẫu số về sức mạnh vũ khí và tiềm lực kinh tế. Ở các nước đế quốc, trong và sau chiến tranh xâm lược, có hay không xuất hiện nền nghệ thuật, trong đó có văn chương, đặc biệt là thi ca trực tiếp động viên, ngợi ca lính tráng của mình như ở các dân tộc phải tiến hành cuộc chiến tranh giữ nước đầy gian khổ, hy sinh. Chắc chắn không có! Bởi, xâm lược để chiếm đoạt không phải là truyền thống, mà chỉ là âm mưu, dã tâm của bộ phận nắm quyền-tiền lũng đoạn, áp đặt bằng những thủ đoạn khác nhau, nên không thể là thành tố của văn hóa. Văn hóa, mà ý chí, tinh thần yêu chuộng hòa bình, độc lập tự do là cốt cách, nhân phẩm, luôn luôn thường trực trong lòng cộng đồng dân tộc, mới là nhân tố quyết định tư tưởng đúng hay sai để đi đến thắng hay bại trong chiến tranh. Vậy, độ lùi sau mỗi cuộc chiến tranh vệ quốc không được phép đánh đồng giữa thắng và bại, cũng không được quyền tước đoạt những giá trị văn hóa truyền thống và giá trị văn hóa mới nảy nở. Văn học và nghệ thuật kháng chiến chống thực dân Pháp và chiến tranh chống đế quốc Mỹ trở thành một bộ phận không thể tách rời truyền thống lịch sử và truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam có bề dày hàng nghìn năm.
Trong bài thơ “Vợ tôi”, viết năm 1998, Bùi Văn Dung không sao tránh được hồi tưởng: “Binh lửa một thời rải đều khắp đất đai / Hồi ấy, chia tiền tuyến-hậu phương chỉ là khái niệm”. Ý thơ của ông là một thực tế hiển nhiên. Cả nước có chiến tranh thì trai tráng trực tiếp xông pha chiến trường, người già, phụ nữ, trẻ em ở nhà cũng đội bom cày cấy, học hành, cũng cầm súng hoặc phục vụ chiến sự. Truyền thống “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, “tuổi nhỏ làm việc nhỏ” không bao giờ ngừng bừng sáng trong tâm thức người Việt Nam. Vượt lên hồi tưởng, ông viết: “Biết mấy lần em vui vẻ tiễn đưa tôi / Đất nước mình mấy nghìn năm đưa tiễn / Người đẹp nhất nước mình là người hôm qua ra tiền tuyến / Người đáng quý nhất nước mình là các bà mẹ sinh cho non sông những thế hệ anh hùng” (Viết sau chiến tranh). Thực ra, khi ông viết những dòng này (năm 1978) chiến tranh chưa dứt trên Tổ quốc đau thương. Không lâu sau đó (1979) ông có mặt ở biên giới phía Bắc và viết bài thơ “Giá em đừng yêu anh” – một bài thơ đầy tâm trạng với những câu thơ da diết: “Đừng yêu anh làm gì / Chiến chinh dài lắm đấy / Đợi anh nhiều như vậy / Mùa xuân nào chịu yên”. Đó là lời chân thành xuất phát từ tấm lòng nhân hậu của người thơ-chiến sỹ trước thực tế chia ly, những mong người tình của mình nhẹ gánh khắc khoải đợi chờ, vì “Anh sẽ còn phải đi / Những chân trời bão nổi / Lại một kẻ thù mới / Hầm hè nơi biên cương”. Nhưng rồi người thơ không cưỡng nổi: “Nước mắt thương đồng chí / Nâng cuộc đời anh lên // Giờ có thể yêu em / Rất công bằng sòng phẳng / Hai phương trời đầy nắng / Đợi anh về nghe em”. Bài thơ đọc lên có âm hưởng da diết dội về từ bài thơ nổi tiếng “Em ơi, đợi anh về” của nhà thơ Xô viết Si-mô-nốp: “Anh biết anh không chết / Đâu phải lẽ tình cờ / Chỉ có em tha thiết / Dẫu dòng lệ cạn khô / Em của anh biết chờ / Không như ai, chẳng đợi” (bản dịch của Nguyễn Tất San và Nguyễn Tất Thịnh từ nguyên bản tiếng Nga). Bài thơ của Bùi Văn Dung ngay sau khi ra đời đã được nhạc sỹ Phạm Tuyên phổ nhạc trong chuyến đi công tác biên giới phía Bắc. Nhạc sỹ Phạm Tuyên tâm sự: khi dựng xong, bài hát “Giá em đừng yêu anh” không được phổ biến vì “những câu thơ da diết” gây sốc một số chính trị viên, nhưng lại được không ít ca sỹ muốn thể hiện. NSND Lê Dung xin ý kiến và được Bộ VH-TT cho phép phổ biến bài hát trong một chuyến lưu diễn tại Pháp. Ca sỹ Ngọc Tân là người đầu tiên thu thanh bài hát này cùng bài “Gửi nắng cho em” (thơ Bùi Văn Dung, nhạc Phạm Tuyên) trong một băng ca nhạc của riêng mình.
Bằng thơ, Bùi Văn Dung lý giải chiến tranh theo cách riêng mà tương đồng với mục đích chung của văn học nghệ thuật: phản ánh chân thực, khách quan nỗi niềm sâu kín của con người để “nhìn thấy”, cảm được những giá trị đích thực của cuộc sống, của cái đẹp nhân sinh mà mỗi con người ấp ủ và biểu hiện dưới nhiều cung bậc tình cảm, ý thức khác nhau. Tâm trạng con người trong chiến tranh không hề phức tạp hơn tâm trạng con người trong cuộc sống thường nhật, cũng đều mang những thuộc tính yêu-ghét, vui-buồn, giận hờn-căm thù, cùng những thói xấu, hành vi không lành mạnh; khác chăng ở chỗ, trong cuộc đối đầu với súng đạn, với sự sống còn của dân tộc, con người cá nhân biết hy sinh lợi ích riêng tư, song không vì vậy mà thả trôi cái bản thể vốn có. Với mẹ, ông thấy mình chưa tròn bổn phận làm con: “Con xa nhà đã mấy chục năm nay / Đỡ đần mẹ một ngày đông ngắn thế / Mới biết mình những tháng ngày dâu bể / Đã sánh gì với mẹ những mùa đông” và với nơi chôn nhau cắt rốn, với người vợ tảo tần: “Làng quê mình vất vả những vụ chiêm / Được hạt thóc cũng ba chìm bảy nổi / Xuân đến cổng, còn em thì lại vội / Chẳng lúc nào dịu bớt nỗi lo toan” (Ngày đại hàn). Nỗi thương, nỗi nhớ của người lính ngoài chiến trận và khi trở về mái ấm bình yên khác nhau ở cung bậc của tâm trạng. Xa xôi cách trở thì ngổn ngang lo lắng, mỏi mong giữa từng trận đánh: “Thời gian như nhịp bập bênh / Mình em một phía – nhẹ tênh lại chờ”; thì giờ đây từng ngày từng giờ dằn vặt trước sự trôi đi về cằn cỗi, già nua của những người thân yêu, và cả bản thân mình, không sao níu kéo: “Thả mây cho gió mang đi / Định nói với cỏ câu gì – lại thôi” (Không định viết II). Định thôi không nói nhưng chẳng thể đừng: “Khi biết yêu em thì đã già rồi” (Vợ tôi), hoặc tự ru mình trước “ngưỡng cửa” Nàng Thơ: “Thôi đành vậy. Tôi tự nguyện làm hạt cỏ gà mọc ngoài lãnh địa / Làm láng giềng của vùng đất đắng phù sa” (Đến muộn). Cũng vậy, cái tình của người lính với nhau là cảm thông, là nhận thức: “Xuân Trường Sơn đỏng đảnh nét hoang sơ / Chỉ có lính và rừng khát vọng / Em và hoa suốt đời tôi trân trọng / Để vượt qua nghiệt ngã chiến tranh này” (Mùa xuân ở Trường Sơn). Nét đẹp người lính trong chiến tranh là sự trân trọng – trân trọng tình yêu, đối với con người và thiên nhiên, do đó luôn đầy tràn khát vọng. Những người nằm xuống không uổng phí, bởi bao người được tiếp tục trân trọng tình yêu thiêng liêng, biến khát vọng thành hiện thực ấm no, hạnh phúc mà chiến tranh đã từng chôn vùi, hủy hoại. “Biết tặng gì mỗi bận qua chơi / Chiếc vỏ đạn làm bình hoa kỷ niệm / Vào mùa mưa hoa phong lan lại hiếm / Biết em vui nên rừng tỏa hương thầm” (Thanh niên xung phong ở biên giới). Những câu thơ dung dị, chân thật này càng tôn lên vẻ đẹp của trân trọng và khát khao bộc lộ nơi những người chằm mình ở mặt trận. Gặp lại đồng đội sau chiến tranh, tình của người lính-người thơ rối bời: “Xin đời để bạn tôi hôn / Hai cùi tay chẳng đủ ôm người tình / Chiếc giường đôi lứa lặng thinh / Chiến tranh như vẫn rập rình nơi đây”, và “Tiếc mình còn đủ đôi tay / Mà sao vẫn phải mượn vay cuộc đời” (Đêm ở nhà đồng đội).
Viết về chiến tranh, những câu thơ của Bùi Văn Dung xoáy vào chiều sâu tâm trạng, mặc dù cả bài thơ nhiều khi không chụm vào mạch chính. Song, ông là tác giả thơ được phổ nhạc khá nhiều: “Gửi nắng cho em”, “Con kênh ta đào”, Giá em đừng yêu anh”, Biên giới này là Tổ quốc”, “Đảng gọi rồi chúng tôi xin có mặt”, Chào Tổ quốc từ đỉnh cao chiến thắng” (nhạc Phạm Tuyên) và “Trăng nguyên” (nhạc Huy Thục). Nhạc sỹ Phạm Tuyên, người phổ nhạc liên tục sáu bài thơ của Bùi Văn Dung, không nói về mối quan hệ giữa nhạc và thơ trong lĩnh vực ca khúc, mà “chỉ nghiệm thấy rằng bài hát phải là một chỉnh thể có sự đồng điệu trong cảm xúc của cả hai tác giả thơ và nhạc… Một bài thơ hay và sâu sắc chưa chắc đã là một bài hát hay khi được phổ nhạc, nhưng một ca khúc hay thì ca từ phải là một bài thơ có hình ảnh và nội dung tình cảm phù hợp nhất”.
Nhà thơ Bùi Văn Dung và tác giả Cao Ngọc Thắng
Ở bài thơ “Gửi nắng cho em” dường như Bùi Văn Dung gửi gắm một cách phức hợp việc lý giải chiến tranh và lý giải cuộc đời (cũng trong bài “Tiểu tựa cho… Nhìn ngoài đôi mắt”, ông viết: Và gần hơn một tí / Tôi lý giải cuộc đời). Bài thơ “Gửi nắng cho em” xuất hiện trên báo Sài Gòn giải phóng vào cuối năm 1975. Người chiến sỹ-thi sỹ “Muốn gửi ra em một ít nắng vàng / Nghe đài báo rét kéo dài ngoài ấy / Mùa đã xong, còn chiêm xuân cày cấy / Bà con mình sẽ xoay sở ra sao?”. Thật là trằn trọc – nỗi suy tư của một người nông dân vùng trung du miền Bắc mặc áo lính (quê Bùi Văn Dung ở xã Thượng Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). “Khi hai miền cùng vào một vụ chiêm / Hai vựa thóc cùng nặng tình của đất / Cùng vào mùa một ngày vui thống nhất / Hơn lúc nào anh hiểu thấu lòng em”. Vì hiểu thấu lòng em và “Thương cái rét của thợ cày thợ cấy / Nên cứ muốn chia nắng đều cho ngoài ấy”. Chiến tranh là chia ly, nhưng vẫn chung cuộc đời. Con người, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất cứ nơi đâu, vẫn hướng về quê nhà thao thức, ngóng trông. Tình thương-yêu rất cụ thể, không hào nhoáng, không nệ vật chất. Chia đều nắng là chia đều niềm vui, chia đều chiến thắng, cũng là chia sẻ những năm tháng “chăn đơn gối chiếc” nghiêng nỗi mỏi mòn vời vợi trong hy vọng mỏng manh. Vì, không có em, không có tình em, cũng là tình của quê hương, thì sao anh vượt qua được khói lửa chiến tranh. Một nửa thắng lợi là ở nơi quê nhà nâng đỡ; cuộc đời trọn vẹn là mỗi người phải có, nhất định phải có một nửa yêu thương: “Nhìn từ phía nào đây / Bên lên hay bên lặn / Hai phần nửa đời mình / Mới thành trăng đầy đặn” (Trăng nguyên). Tứ thơ ấy chuyển hóa tư duy thơ Bùi Văn Dung và đọng lại ở một câu xuất thần trong bài “Gửi nắng cho em” và có lẽ khi đặt bút viết câu thơ: “Em hãy làm cây thông xanh nghe em”, Bùi Văn Dung không ngờ rằng ông là người đầu tiên đưa vào thi ca hình tượng đẹp của người phụ nữ Việt Nam đến đỉnh cao – cây thông, ngang với vị thế đấng quân tử, điều mà các bậc nho sỹ trước đây và thi nhân đương thời chưa hề nói tới. Dù chủ đích hay không, thì hình ảnh “em-cây thông” đã hiện lên văn bản, đã “buột” khỏi tầm kiểm soát và không còn là của riêng tác giả nữa, nó có đời sống độc lập trong lòng người yêu thơ-yêu nhạc. Vị thế “em-cây thông” không vấp phải sự chối từ, bởi người phụ nữ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh đã được giải phóng, có quyền tham gia và tham gia đạt hiệu quả trên mọi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt xuất sắc trong hoàn cảnh chiến tranh. Và, ngay sau chiến tranh, người phụ nữ tiếp tục thể hiện vị thế “em-cây thông”: “Con kênh ta đào chưa có nước chảy qua / Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng / Mồ hôi muối lưng áo em bạc trắng / Con kênh bây giờ chưa là con kênh xanh // Con kênh ta đào có em, có anh…” (Con kênh ta đào). Con kênh đang đào chưa có nước và chưa xanh, thì sẽ đến ngày nó đưa nước về tưới mát và đồng bãi cho mùa bội thu, mồ hôi của em (và của anh) chẳng phí hoài đã đổ. Niềm tin và yêu ấy, về “em-cây thông” cho nhà thơ niềm hy vọng: “Ta về miền quê ở đó có em / Đô thị hóa đứng ngoài hàng rào dâm bụt / Bát riêu cua hăng mùi rau rút / Đó là miền vô nhiễm của đôi ta” (Vô nhiễm).
Mỗi lần đọc lại hai tập thơ (đã xuất bản) “Gửi nắng cho em” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2002) và “Nhìn ngoài đôi mắt” (Nhà xuất bản Phụ nữ, 2010) của Bùi Văn Dung, là mỗi lần tôi “nhặt” thêm được những câu thơ lý giải chiến tranh và lý giải cuộc đời sâu sắc cả ý cả tình của ông. Và, gần đây tôi “chợt” thức nhận vẻ đẹp đằm thắm của câu thơ: “Em hãy làm cây thông xanh nghe em” – một lời đề nghị, tôn vinh hơn là ước vọng của một người thơ xuất thân từ thợ cày từng mặc áo lính!
Những ngày rét-ấm cuối năm Giáp Ngọ
CNT.
Đăng Bảy - Hội nhà văn Việt Nam