Ở miền Bắc, phe cánh đầy uy quyền của chúa Trịnh đã khống chế vua Lê và triều đình thời đó tại Thăng Long, đồng thời chúa Trịnh tiến hành chiến tranh với nhà Nguyễn, vốn có triều đình tại phía Nam Huế và được hỗ trợ bởi vũ khí Bồ đào nha và quân Pháp do các nhà truyền giáo thuộc địa tuyển mộ. Cuối cùng, sau vài thập kỉ hỗn loạn tàn bạo, vào năm 1771, ba anh em, được biết tới với cái tên Tây Sơn, bắt đầu cuộc nổi dậy nông dân đánh bại chúa Trịnh, vua Lê và nhà Nguyễn, chiếm lấy Thăng Long (Hà Nội), Huế và Sài Gòn, và xây dựng nên một triều đại ngắn ngủi của mình (1788-1802) rồi cũng sớm bị mất vào tay nhà Nguyễn.
Thời kì sụp đổ xã hội và điêu tàn chiến tranh này, có lẽ không đáng ngạc nhiên, lại cũng là điểm cao trong truyền thống lâu dài về thi ca của Việt Nam. Như Dante nói trong cuốn De vulgari eloquentia, "Các chủ đề chính của thơ ca là tình yêu, đức hạnh và chiến tranh." Tác phẩm thơ vĩ đại của thời kì này - Truyện Kiều nổi tiếng của Nguyễn Du -- đều tràn ngập với niềm khao khát cá nhân, với sự thông cảm cho "số mệnh bạc bẽo," và với việc tìm kiếm cái gì đó vĩnh hằng. Chiến tranh, đói khát và tham nhũng đã không đánh bại được các nhà thơ như Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, mà lại còn làm sâu sắc hơn công trình của họ.
Điều lập tức gây ngạc nhiên về văn phong của Hồ Xuân Hương là ở chỗ bà viết về tất cả -- hơn nữa, ở chỗ bà đã nhận được sự hoan nghênh liên tục và ngay lập tức. Sau hết, bà là một người phụ nữ làm thơ theo truyền thống Khổng Tử, đàn ông. Trong khi phụ nữ bao giờ cũng giữ vị trí cao trong xã hội Việt Nam --đôi khi thống lĩnh quân đội, thường thì làm cố vấn cho vua chúa, và bao giờ cũng tham dự vào việc quản lí tài sản -- vài người được tôn làm nhà thơ, có lẽ bởi vì một số người đã được dạy dỗ trong học hành văn chương nghiêm ngặt, điều thường được dạy cho các thanh niên để chuẩn bị cho các kì thi đình với mong ước kiếm được vị trí trong hệ thống quan lại vẫn cai trị tại Việt Nam từ năm 939 sau công nguyên cho mãi tới thế kỉ hai mươi (Khách thăm Hà Nội vẫn còn có thể thấy, trong sân của Văn Miếu, những con rùa đá to lớn cõng trên lưng mình tấm bia khắc tên của những tiến sĩ đã đỗ đạt trong các kì thi đình từ năm 1442 cho tới 1779. Kì thi cuối cùng là trong năm 1919.).
Điều cũng gây ngạc nhiên là những gì bà đã viết ra. Vào cuối triều Lê, khi địa vị xã hội của phụ nữ đã bị sút giảm hẳn, bà thường đặt câu hỏi về trật tự của mọi việc, nhất là quyền của đàn ông. Chế độ phong kiến hà khắc ở cuối thời Lê đã lấy cuốn Kinh Lễ của Khổng Tử làm sách hướng dẫn chính thống trong đó phụ nữ "khi chưa chồng thì theo cha, khi có chồng theo chồng, và khi goá chồng thì theo con trai." Đã có "bẩy lí do để từ bỏ vợ: 1, nếu cô ấy không có con, 2, nếu cô ấy ngoại tình, 3, nếu cô ấy không tôn kính bố mẹ chồng, 4, nếu cô ấy ngồi lê mách lẻo, 5, nếu cô ấy ăn cắp, 6, nếu cô ấy bị cho là ghen tuông, và 7, nếu cô ấy bị bệnh không thể chữa được.” Làm cho vấn đề còn tồi tệ hơn nữa, các qui tắc hồi môn và lễ cưới đã trở nên tốn kém và phức tạp đến mức vào thời Hồ Xuân Hương, ít phụ nữ thuộc tầng lớp bà lấy được chồng, phần lớn trở thành vợ lẽ (Theo Hoa Bằng, Hồ Xuân Hương, Nhà Thơ Cách Mạng, (Sài gòn: Nhà Xuất Bản Bốn Phương, 1953), trang 100 và 103.). Trong khi thơ của Hồ Xuân Hương công kích vào quyền lực của đàn ông, điều có thể dường như là khá thông thường vào cuối thế kỉ đó với người Mĩ và người phương Tây khác, thì với thời đại của bà điều đó gây chấn động và gây khiếm nhã cá nhân.
Bên cạnh đó, bà đã chọn viết bằng chữ Nôm— một hệ thống chữ viết biểu thị cho cách nói của người Việt Nam - thay vì dùng chữ Hán, ngôn ngữ của tầng lớp quan lại cao cấp. Việc chọn viết bằng chữ Nôm của bà, như Chaucer đã chọn viết bằng tiếng Anh và Dante chọn viết bằng tiếng Italia, đem lại cho thơ ca của bà một chiều hướng Việt Nam đặc biệt tràn ngập với cách ngôn và thói quen nói chuyện của thường dân (Giới học giả gần đây cũng đã tìm ra những bài thơ cô viết trong chữ Hán. Xem Đào Thái Tôn, Thơ Hồ Xuân Hương (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1996). Quả vậy, nhà thơ hiện đại Xuân Diệu đã gọi bà là "Bà chúa thơ Nôm."
Nhưng, cuối cùng, sự kiện đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ phần lớn hơn trong thơ bà - mỗi bài thơ lại là một kì công về thơ trữ tình theo kiểu Đường luật (luật thi) -- đều mang hai cách hiểu: mỗi bài thơ đều ẩn giấu trong nó một bài thơ khác với nghĩa sắc dục. Trong những bài thơ này chúng ta có thể được giới thiệu quang cảnh về ba mỏm đá, hay cái động đá vôi, hay cảnh dệt cửi hay đánh đu, hay các vật như cái quạt, quả cây, hay thậm chí con ốc nhồi -- nhưng ẩn dấu bên trong gần như tất cả thơ Đường luật tuyệt vời của bà là ý đồ sắc dục, điều tự lộ ra qua việc chơi chữ và mang hình tượng kép. Không nhà thơ nào khác dám làm việc này. Sắc dục, tất nhiên, là chủ đề bị cấm kị trong truyền thống văn học này. Như Hữu Ngọc và những người khác đã chỉ ra, đạo Khổng thậm chí xua đuổi sự khoả thân khỏi nghệ thuật Việt Nam (Hữu Ngọc và Françoise Corrèze, Hồ Xuân Hương, ou le voile déchiré (Hà Nội: Fleuve Rouge, 1984), p. 31.). Với thái độ gợi tình của mình, Hồ Xuân Hương quay sang cái sống động khôn ngoan thông thường trong các bài ca dao và tục ngữ, cái thái độ mà từ ngòi bút văn học của bà có thể được nói một cách chính xác là sự thách thức chứ không phải là bệnh tâm lí sắc dục, như một số người chỉ trích bà đã buộc tội.
Vậy là, vào lúc cái chết và sự huỷ diệt bày ra, khi mà thế lực cầm quyền mạnh mẽ và không được tôn kính bị trừng trị bởi lưỡi kiếm, thì làm sao nó thoát khỏi sự bất kính, sự khinh bỉ, và sự sỗ sàng thường lệ của nền thơ ca của nó? Câu trả lời nằm ở tài xuất chúng của bà như một nhà thơ và trong sự quí trọng văn hoá tột bực mà người Việt Nam bao giờ cũng đặt vào thơ ca, dù là trong truyền thống thanh cao của giới trí thức hay ca dao truyền miệng của thường dân. Rất giản dị, bà đã tồn tại bởi vì thông minh nhạy cảm trong thơ ca. Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ, bà đôi khi viết ra để đáp ứng cho sự ngạc nhiên tự nhiên. Chính sự tinh xảo riêng của bà trong việc sáng tác hai bài thơ một lúc, bài nọ ẩn dưới bài kia, đã lôi cuốn độc giả -- từ người bình dân, người vốn có thể nghe trong thơ của bà tiếng vọng của bài ca dao, tục ngữ của mình, và theo nghĩa làng xóm thông thường, cho tới các viên quan lại triều đình mang nặng Hán văn, người giễu cợt bà trong thơ ca, người đánh giá sự tinh xảo thơ ca của bà, và người đưa bà ra làm cái bảo vệ cho mình(Chẳng hạn như Chiêu Hổ, thích chòng ghẹo cô trong thơ ca, người mà một số học giả (nhưng không phải tất cả) xếp vào loại quan hạng cao như Phạm Đình Hổ.). Việc đùa giỡn bằng lời của bà, cái khôi hài tinh quái của bà, lối nói tự nhiên của bà, niềm khát khao tâm linh của bà, cơn đói tình yêu của bà, và sự giận dữ của bà đối với tệ tham nhũng phải đã là âm hưởng chính.
Cuộc đời và truyền thuyết
|
Không còn mấy điều được biết một cách đúng như thật về cuộc đời bà. Những tài liệu thực tế giống như những tài liệu được lưu giữ ở phương Tây vào thời của Shakespeare gần đây mới có ở Việt Nam. Phần lớn tiểu sử của bà đều được suy ra từ thơ ca của bà. Quả thực, cứ cho là thiếu những sự kiện rõ ràng và có những điều thường không đúng về thơ bà, một số độc giả đã biện minh rằng bà chưa bao giờ tồn tại mà chỉ là sự sáng tạo hư cấu của các nho sĩ nào đó, một loại biện luận kiểu Earl of Oxford (kiểu biện luận mà một số học giả cho rằng nhà thơ và nhà viết kịch Edward de Vere thế kỉ 17 (1550-1604) mới là tác giả thực của các vở kịch của Shakespeare. Phần lớn những người nghiên cứu Shakespeare đều không coi đây là điều nghiêm chỉnh.) Nhưng quá nhiều bằng chứng tiểu sử dầy đặc nổi lên từ những bài thơ đó để chứng tỏ điều này là không đúng, cùng với cách nhìn quen thuộc của bà vào mọi thứ và cả loạt những cách chọn từ duy nhất.
Các học giả nói chung đồng ý bà xuất thân từ gia đình họ Hồ tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An ở giữa miền bắc Việt Nam(Về thảo luận đầy đủ xin xem Hoàng Xuân Hãn, “Hồ Xuân Hương với Vịnh Hạ Long,” trong cuốn La Sơn Yên Hồ của ông Tập III (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1998), trang 897 và 930.). Họ bất đồng về bố của bà, là nhà nho Hồ Sĩ Danh (1706-1783) hay Hồ Phi Diễn (1703-1786). Mẹ bà, có tên là Hà, là vợ lẽ, tức là vợ thứ hai, hay hầu thiếp, mặc dầu là hầu thiếp đẳng cấp cao. Hồ Xuân Hương có lẽ được sinh ra vào khoảng giữa 1775 và 1780, hoặc ở làng Quỳnh Lưu hoặc làng Khán Xuân, bà được chôn theo bây giờ ở quãng vùng đang phát triển nhà mới ở khu ngoại ô gần Hồ Tây của Hà Nội ngày nay.
Bà hình như đã được dạy dỗ về văn học cổ điển. Tên của bà, mà có thể có nguồn gốc từ cái làng bà đã lớn lên, có nghĩa là “Hương mùa Xuân”. Giữa năm 1815 và 1818, bà dường như đã nhiều lần tới vãng cảnh Vịnh Hạ Long. Năm 1819, theo giáo sư Nguyễn Huệ Chi thuộc Viện Văn học ở Hà Nội, có một tài liệu chính thức nói tới “hầu thiếp Hồ Xuân Hương,” trong khi một bản thảo khác (“Xuân đường đàm thoại,” 1974) nói tới cuộc trò chuyện vào năm 1869 giữa các nho sĩ tại tỉnh Bắc Ninh, trong đó một trong số họ, tới muộn, nói ông ta “vừa mới tới từ đám tang của Hồ Xuân Hương.” Quả thực, tài liệu tham khảo năm 1819 nói tới Hồ Xuân Hương, đã được ghi trong Hoàng Xuân Hãn (tr. 869), là một phần của bản ghi về việc hành hình chồng bà do ăn hối lộ. Chồng bà, Trần Phúc Hiển, tri phủ Yên Quảng, đã bị hành hình theo lệnh nhà vua. Bản ghi viết "(Kỳ tiểu thiếp XUÂN HƯƠNG năng văn, chính sự. THỜI XƯNG tài nữ. THAM HIỆP thường sử can dự ngoại sự. THỦ DUNG tố kỵ chi.)" (Hoàng Xuân Hãn, tr. 868 – chữ viết hoa là của Hoàng Xuân Hãn)." (Ghi trong ngoặc cũng của Hoàng Xuân Hãn) "Vợ bé ông tên là XUÂN HƯƠNG, giỏi về văn chương và chính trị; bấy giờ nổi tiếng là tài nữ. Quan Tham Hiệp thường sai Nàng dự vào việc quan. Viên án thủ Dung vốn sợ ghét Nàng..." (HXH, p. 869).
Nhưng có lẽ bà đã chết vào đầu những năm 1820. Vào năm 1842, chúng ta có bài thơ đáng chú ý của em vua Thiệu Trị trong cuộc viếng thăm hoàng gia tới Hà Nội.
|
Sưu tầm