Đời người nhanh vậy! Có lẽ không chỉ riêng tôi, những người bước vào tuổi ông, tuổi bà nhiều lúc nhớ quê hương, nhớ người thân, bạn bè da diết. Nói đến chuyện cũ, các con, các cháu thường hay bảo ông, bà lại chuyện “ngày xưa”. Cũng có lẽ, đấy là điều tất nhiên, lớp trẻ thời “mở cửa” làm sao biết được cái “ngày xưa” ấy. Cái “ngày xưa” của ông, bà chúng sống cực kỳ thiếu thốn, gian khổ, nhưng đầy ắp tình người, tình thương; hơn thế, ông, bà chúng đôi khi còn “lẩm cẩm” ước “bao giờ cho đến ngày xưa” mới càng khó hiểu chứ.
Gần đây, nhân một ngày chúng bạn trang lứa cùng học phổ thông về quần tụ với nhau tại quê nhà (mỗi năm một lần), chúng tôi lại chuyện mới, chuyên cũ hàn huyên và lại chuyện “ngày xưa” mà nói, để rồi chẳng thể nào quên.
Có một chuyện “ngày xưa” được nhắc tới, tôi muốn kể lại cùng ai, những người hay thích chuyện “ngày xưa” để cùng nhau suy ngẫm; và, biết đâu, thêm được một chút thi vị cuộc sống cho ai. Đó là chuyện nghề quê tôi. Tôi cứ trăn trở không biết đó có được gọi là nghề hay không. May quá! Cứ theo từ điển tiếng Việt, nghề là “công việc một người thường xuyên làm để sinh nhai”, thì đây đích thị là nghề quê tôi rồi.
Câu chuyện được mở đầu bởi thằng Lanh, con bà cô tôi, một lính hải quân xa nhà lâu, ở mãi trong Nam, vừa có dịp ra và tham gia buổi tụ họp. Nó bảo: Chúng mày ạ! Tao ở xa quê, lại luôn gắn với nghề “sông nước” nên nhiều lúc nhớ nghề đánh dậm quê mình lắm. Tao cũng tham gia đánh dậm từ lúc học lớp năm, lớp sáu cho đến khi đi bộ đội còn gì. Những lúc nhớ nhà tao cứ tự hỏi, sao quê mình lại có nghề đánh dậm nhỉ?
Thế là, mỗi người một ý, rồi cũng "khối" chuyện được nêu ra và cũng cho ra được lời giải nghe ra có vẻ hợp lý.
Xóm tôi (làng, thôn), ở trong đê, cách bờ sông Hồng hơn một cây số và cách thành phố Việt Trì khoảng mời cây số về phía Đông Nam. Huyện Vĩnh Tường quê tôi được ngăn cách với Hà Tây bởi con sông Hồng, với thành phố Việt Trì bởi sông Lô, với huyện Lập Thạch phía trên bởi sông Phó Đáy (sông Đáy thuộc đất Hà Tây). Có lẽ quê tôi là vùng đất được bồi đắp trực tiếp của sông Hồng, sông Lô và có sự đóng góp không nhỏ lượng phù sa của cả sông Đà từ xa xưa, Việt Trì thành phố ngã ba sông mà. Vùng đất quê tôi được gọi là đất phù sa cũ, đất phù sa cổ là đất "trầm tích" trên vùng đồi núi và vùng bán sơn địa. Đào sâu xuống đất ở độ sâu ba, bốn mét là có thể lấy được cát xây nhà. Hồi bố tôi làm nhà cũng đào lấy cát lại vườn và sau làm ao luôn. Trước đây, đến mùa lũ, nước dâng cao ngoài đê, cao đến mức, đê Trung ương quản lý mà có năm đứng trên mặt đê có thể chao chân xuống nước, thì lúc đó, tại nhiều giếng nước khơi trong làng, người ta có thể với tay xuống tới mặt nước, dùng gàu múc nước không cần dây, lúc thường thì sâu năm, sáu mét, tùy chỗ mạch nước và chỗ đất cao hay thấp. Nước cũng không đục mà trong vắt vì chắc là được lọc bằng cát cách xa hàng cây số so với sông. Lâu rồi, các công trình trị thuỷ sông Đà, sông Lô đã hết lũ lớn như xưa rồi.
Chính vùng đất này đã hình thành nên đủ kiểu tên gọi về diện tích mặt nước. Diện tích nhỏ có hố, có chuôm, có ao. Diện tích lớn có đấu, có đầm, có hồ, có vực hay ngòi dẫn. Lớn nhất trong vùng phải kể đến Đầm Rưng, đầm Phó Đa - được nghe kể là những đoạn nhánh sông xưa, đầm Rùng, đầm Quảng Cư, đấu Châu, vực Xanh - được nghe kể hình thành từ những cuộc vỡ đê từ xưa, trong đó đầm Quảng Cư là từ cuộc vỡ đê (vỡ "đường") năm 1945, mới nhất. Ngay xã tôi và ba xã bên cạnh có hẳn một dãy "liên đầm" như đầm Bỏi, đầm Giót, đầm Thượng, đầm Hạnh, đầm Phú Trưng, đầm Giá, đầm Thùng, đầm Tuân Chính...
Thời lâu lắm rồi, tôi chưa có điều kiện tìm hiểu thêm từ thời "Tây" hay thời "Ta", quê tôi đã hình thành một hệ thống kênh, mương đào đắp tưới - tiêu nhân tạo tương đối chủ động cho toàn bộ vùng đất lúa huyện nhà, nước được bơm từ trạm bơm Bạch Hạc - Việt Trì vào kênh lớn theo hai hướng, Tây Nam - Đông Bắc và hướng Tây Bắc - Đông Nam. Tiếp đó, nước được dẫn qua mương, mương dẫn qua "xánh" (rạch) theo bờ vùng (khu), bờ thửa đến từng ruộng.
Có thể nói rằng tất cả hệ thống mặt nước đó cùng với nhu cầu sống đã tạo nên cái gốc nghề đánh dậm quê tôi. Tất cả hệ thống đó được dân đánh dậm gọi khái quát là "đường đất" hành nghề, bởi nước đến đâu thì có cá ở đó. Xuất xứ nghề đấy chứ!? Nhưng chúng tôi chẳng thể lý giải nổi nghề đánh dậm quê tôi có từ bao giờ, ai là Tổ nghề. Chỉ biết rằng ông, cha trước rồi con, cháu sau, tôi không muốn nói "cha truyền, con nối", bởi "sự đánh dậm" phát triển cũng rất tự nhiên, học nhau mà "hành", tuy nhiên có "truyền" vẫn hơn.
Bố tôi, năm nay ngoài chín mươi tuổi, cán bộ lão thành những năm Ba Mươi (Thế kỷ Hai Mươi), hơn ba mươi năm kinh qua hai cuộc kháng chiến trong quân ngũ chống Pháp, chống Mỹ, vẫn nhớ "như in" cảnh đánh dậm xưa, mà cũng chẳng biết được lịch sử của nghề. Có dịp là Ông cũng hay kể chuyện đánh dậm. Thế hệ của Ông không chỉ đánh dậm gần ở quê mà còn phải đi rất xa, tận Tu Vũ (Hoà Bình), Cao Xá, Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ)...Đi theo đợt chứ không chỉ theo ngày, theo buổi. Đánh dậm xa quê có nhiều lý do, có lý do đầm nước quản lý tư nhân địa chủ, nhưng chủ yếu vẫn là tìm "vùng tự do" để chốn quân dịch, phu phen, chốn thuế thân (thuế đánh vào xuất “đinh" nam giới) dưới chế độ cũ. Thỉnh thoảng mới về qua nhà mà cũng có những lần các ông suýt bị bắt. Chỉ có nghề đánh dậm mới giúp các ông sống và còn giúp được gia đình vợ, con.
Thế rồi, khi Cách mạng về - các cụ thường nói thế - chính những người đánh dậm ấy được tuyên truyền và giác ngộ đầu tiên để rồi tham gia các hoạt động cách mạng, trở thành những "xích vệ đỏ" bảo vệ cơ quan Xứ uỷ Bắc kỳ đầu những năm Bốn Mươi. Hồi đó, điện thờ ba gian của nhà Bác Cả tôi (thầy đồ, Nho - Y - Lý - Số đủ cả) làm nơi nuôi giấu cơ quan Xứ uỷ làm việc, các cán bộ gánh công văn bằng những cái "bồ" (đan bằng tre, nứa) như những lái buôn để giữ bí mật. Bố tôi còn nhớ "anh" Đào Duy Kỳ, "chị" Châu, "anh lái" Tuân... Ngay trong gia đình tôi, Bố tôi thôi không đi đánh dậm nữa, Chú tôi cũng bỏ "Sư Ông" đi theo Cách mạng, hai Bác tôi cũng trở thành những chiến sĩ "Liên Việt" (Việt Minh) cuối những năm Bốn Mươi và đã trở thành liệt sĩ trong một trận chống giặc càn làng năm 1947. Trong kháng chiến chống Pháp, xã tôi là một xã không chịu "Tề" (không chịu sự quản lý của địch). Kháng chiến chống Mỹ, xã Thượng Trưng quê tôi "lớp cha trước, lớp con sau - chung tình đồng chí, chung câu quân hành", được gọi là "Làng Súng" – tên một bài báo Tết 1970 của tác giả Phong Nhã, trong đó gia đình tôi được nêu rất đầy đủ, khi bố và anh trai thứ hai tôi vẫn trong chiến trường miền Nam (B) - sau được phong xã Anh hùng. Cũng dễ hiểu thôi! Cách mạng thường sớm đến với những người cùng khổ.
Trở lại chuyện nghề, cũng lạ, huyện tôi có tới hai mươi tám xã, trong đó mười xã phía Bắc ăn Tết Bánh Dày (mừng lúa mới) vào ngày mồng Mười, mười tám xã phía Nam ăn Tết Bánh Dày vào ngày Mười Tám tháng Mười âm lịch hàng năm, thì cũng chỉ có vài xã phía Nam xung quanh, mà tập trung chủ yếu ở xã tôi, xóm tôi là có nghề và thạo nghề đánh dậm thôi. Không biết đây có phải là sự "giấu nghề" truyền kiếp không nữa.
Thế hệ chúng tôi không phải đi đánh dậm xa quê như thế hệ trước, xa lắm cũng chỉ khoảng chục cây số thôi. Khi đi xa thường đi đông người, đi từ nửa đêm đến nơi đánh dậm thì gần sáng, ngồi nghỉ một lúc, thay quần áo, đánh dậm, xong, tắm sơ, mặc lại quần áo, mở cơm nắm mang theo ra ăn, rồi ai đi đi chợ thì đi, ai về thì về. Về đến nhà tắm lại, làm một giấc, thức dậy có việc khác thì làm.
Đồng đất quê tôi lúc đó sao mà nhiều cá thế. Thường thì hồ, đầm, ao lớn đợc các cơ quan Nhà nước hoặc hợp tác xã nuôi thả, trông giữ, "thả cá mùa Hạ, thu cá mùa Đông". Mưa rào đầu mùa Hạ, cá Rô, cá Trê, cá Quả ... "rạch" (trườn) ngược dòng nước về tận sân nhà; những vạt cỏ ven đầm, ao, cá Chép, cá Trôi... "vật" đẻ, tha hồ dễ kiếm.
Dân đánh dậm chúng tôi chủ yếu "hành" nghề ở những vùng tự do không ai quản lý thôi, cũng được lắm rồi. Nhờ Trời! Những lúc mưa to, lũ, lụt, nước sông to, nước đồng lớn, mênh mông. Lúc ấy thì cá nuôi trong hồ, ao, đầm, đấu với cá kênh, mương, cá đồng "bằng nhau". Khi có nước mới, có "động", thì cá vọt ra khỏi nơi nước tĩnh, nước tù đọng ngay. Như thế mới có cá cho chúng tôi kiếm chứ. Thích nhất là những cuộc "gặp may" mà đầm, ao nuôi bị vỡ bờ, vỡ "đẽ" (phên chắn lối nước vào, nước ra). Lúc ấy, cá "xổng" ra ngoài, đánh dậm được nhiều đến mức không còn chỗ chứa, túm cả chân quần, tay áo (quần, áo mặc được thay ra khi đánh dậm) mà đựng. Lúc ấy, cũng chẳng cần biết thời gian, biết đói như thế nào nữa. Ham và cố gắng thôi, hôm sau quay lại không còn nữa, cá còn lại sẽ "trụt" trở về nơi cũ vào trong vùng "cấm" rồi. Thật không phải với ai đó, khi tôi nói cám ơn Trời hay thích thú khi người khác thiệt hại, đau khổ bị mất cá, nhưng đôi khi lòng người vẫn vậy.
Nói đến vùng "cấm" không có nghĩa là không bị xâm phạm đâu nhé! Đánh dậm trộm cũng vẫn thường xảy ra đấy. Chẳng thế, thằng Sáng em tôi, con bà Cô, ngay từ đầu năm lớp Sáu đã được thầy giáo chủ nhiệm phong là "Vua đánh dậm trộm". Trong chúng tôi, nhiều người cũng đã từng như thế. Cũng đơn giản thôi, từ ham đến tham rất gần, chỉ trong "gang tấc" hoặc chỉ cách sợi "tưng tứng" (sợi tước ra từ thân cây chuối như sợi cước nhỏ), là "tham trận ngay", nhất là những lúc đông đoàn rủ nhau, hùa nhau cùng làm, đỡ sợ hơn, còn đánh lẻ là chuyện khác. Bởi thế mà trong chúng tôi, có những người đã từng trải qua những cuộc bị dân quân, tự vệ nơi này, nơi kia cùng những người trông giữ cá vây giáp, bắn súng, phóng mũi mác, bắt bớ, đánh đập, rồi giam cầm trên Công an huyện nữa... vì những xâm phạm vùng "cấm" ấy. Quê tôi chưa có người chết, nhưng cũng gặp nguy hiểm và cũng đã có những người bị ốm sau đòn, "phát ho, phát hen" hoặc mang thương tích trong người. Kể chuyện này thì dài lắm.
Chuyện kể nhau nghe đến đây thì không khí chung có vẻ trầm xuống một chút, có vẻ " ngậm ngùi" một chút. Vì cuộc sống, vì nghề, quê tôi có nhiều "người lớn" đi đánh dậm thường xuyên hàng ngày. Cánh "trẻ con" phải đi học thì thường chỉ đi đánh dậm vào ngày nghỉ thôi, cũng có nhiều đứa trong bọn tôi ham quá bỏ học đi đánh dậm, vì có tiền mà. Thực tế, việc đánh dậm đôi khi được coi như sự "tranh thủ", chủ yếu diễn ra từ nửa đêm về sáng, "tôm chạng vạng, cá rạng Đông" mà, ai ham lắm, còn thấy kiếm được thì cũng chỉ đến nửa buổi sáng thôi.
Thế rồi, bọn tôi lại mỗi người mỗi chuyện với những chi tiết thực tế hơn, thậm chí tỉ mỉ "chuyên sâu" hơn và cũng không có ai thấy chán cả. Thằng Hoạt, một "lính tăng", sau đi lao động bên Liên Xô (cũ) gần hai chục năm, về ở Hà Nội, hôm đó cũng có mặt, nó nêu một câu hỏi: Liệu bây giờ quê mình còn ai đánh dậm nữa không nhỉ?
Thằng Dân con chú họ tôi, cùng học, từ Vĩnh Yên về, vẫn ngồi im từ đầu, tham chuyện: Bố tớ bây giờ vẫn đan dậm bán đấy! Ông bảo, mỗi cây tre phải mua mất sáu mươi đến bảy mươi ngàn đồng, đan được năm đến bảy cái dậm. Mỗi cái dậm bán giá từ năm mươi đến bảy mươi ngàn đồng.
Thế thì rõ ràng rồi, vẫn còn có người đánh dậm, không thì dậm được đan ra bán cho ai?! Mà hay nữa, nghề đan dậm bán, có công, có nghệ, thì cũng có lãi đấy chứ!
Để đánh bắt thuỷ sản, nói chung, quê tôi cũng có đủ cách, đủ kiểu và đủ loại dụng cụ đánh bắt. Đánh bắt bằng lờ, vó, đó, đụt, lưới, lơm, dủi, diu, dậm, chũm..., nhưng đánh bắt bằng dậm là phổ biến, thành thạo, hiệu quả hơn cả. Chỉ có đánh dậm mới trở thành việc thường xuyên, một nghề. Đối tượng người tham gia cũng khác ở đâu đó, như Văn Lung - Phú Thọ chủ yếu là đàn bà con gái, thì quê tôi chủ yếu là cánh "mày râu", già có (đến bảy, tám mươi tuổi), trẻ có (có thể chín, mười tuổi đã biết cầm dậm), không ngoa đâu. Đối tượng đánh bắt cũng khác đâu đó, quê tôi chủ yếu kiếm cá, lúc thích hoặc hiếm mới kiếm thêm cua (đeo hai giỏ). Chắc cũng từ cái nghèo, cái khó mà ra, "đói thì đầu gối cũng phải bò" mà, lại sẵn nghề, sẵn "đường đất" như thế.
Nói về cái dậm, dụng cụ hành nghề. Tuỳ theo người lớn hay người bé, cả về tuổi và tầm vóc, mà người sử dụng dậm có kích thước to, nhỏ khác nhau. Dậm thường được đan bằng nan tre, mức phổ biến nan có độ dài khoảng một mét rưỡi đến mét bảy mươi phân, nan to ngang khoảng hai ly, dày gần một ly thước "Tây" (hệ mét). Nan được đan "long đôi", cách hai xen kẽ, thì phên bản của dậm mới bền. Nan phải được lấy từ cây tre "già bánh tẻ", thân xanh vừa chuyến màu xám ở gốc, vừa chuyển màu vàng phần thân phía ngọn, mới chuyển màu thôi, chuyển hẳn thì già mất rồi. Tre non quá thì nan mềm, yếu, nhiều tơ xước khi chẻ vót, mau thấm nước, dễ bị mọt, nhanh hỏng. Tre già quá thì nan ròn, khó uốn dễ gãy, dậm nhanh thủng lỗ, phải vá (dùng những đoạn nan khác đan cài lại). Nan phải được pha, chẻ khéo thì không bị "lẽo" ( "lãi", "lẹm" - chỗ dày, chỗ mỏng), nan đều, tiết kiệm được tre nguyên liệu và công vót nan. Nan cũng phải được vót nhẵn bóng, "mình cá Riếc", nghĩa là giữa dày, hai bên rìa mỏng, thì mới dóc nước, thoát ẩm, nhanh khô, dậm không bị nặng. Phên dậm đan xong thì được "lấn" (ấn) bó cạp. Cạp dậm gồm hai phần, phần ngoài bằng tre cật mỏng hơn, phần trong bằng tre lớp giữa dày hơn. Phần cạp thường dùng tre đoạn gốc cây. Cạp được uốn khép kín hình cung, phần cong tròn phía trên, phần thẳng "dây cung" phía dưới, chỉ khác phần nối giữa cung tròn và "dây" thẳng được uốn tròn cong đều, không thành góc nhọn. Cạp trong phải khít với phía trong cạp ngoài. Phên được lấn vào phần cạp ngoài theo góc chéo của tấm một cách từ từ, đều tay, đến độ sâu nhất định ở giữa khoảng năm mươi đến sáu mươi phân, nông dần về hai đầu (“mỏ” dậm), xong rồi thì đưa phần cạp trong chèn giữ chặt phên nan, buộc cố định tạm thời bằng lạt tre. Sau khi cắt bỏ phần nan thừa, lấy ba nan khác chèn chặn đầu nan giữa hai phần cạp rồi dùng dây mây nếp bó chặt ("dức" chặt) cách đều liên tục đến hết vòng cạp, "dức" đến đâu thì bỏ lạt tạm đến đấy. Tiếp đến là gắn "cán" dậm và gắn hai "vỉ" vào hai cạp phía “mỏ” dậm . "Cán" dậm là một đoạn ngọn tre to vừa tay cầm và dài vút tầm ngọn, được gắn vào phần giữa cánh cung chỗ to nhất của cạp. Hai "vỉ" được đan mắt cáo lục giác thưa, dài khoảng mười năm phân, rộng vừa khít phần cong nhỏ và được buộc chặt không cho cá trườn dọc dậm ra ngoài. Dậm đan xong nếu được đưa lên gác bếp một thời gian để tre đủ khô, thấm khói thì càng bền mà không bị mọt phá hỏng.
Trong vùng, người dùng dậm có nhiều nhưng người đan dậm (sản xuất ra dậm) thì hầu như chỉ ở xóm tôi mới có. Trong xóm, hầu như ai biết đánh dậm thì cũng biết đan dậm, nhưng người chuyên, người giỏi thì mới làm nhanh, làm đẹp, tiết kiệm được nguyên liệu tre đan. Dậm được đan cũng có chất lượng khác nhau, có làm thật, có làm giả, làm "gian dối thương mại" nữa đấy. Người biết, người quen thì đặt được, chọn được dậm được đan nan "cật", nan khoẻ, ngược lại dính nan "bụng" tre, nan yếu ngay. Chính kích thước, chất lượng mà quyết định giá cả của dậm đắt hay rẻ.
Dụng cụ kèm theo còn phải kể đến "bàn đạp" và giỏ chứa. "Bàn đạp" được làm bằng đoạn thân phần gốc khoảng một phần ba chu vi cây tre, dài khoảng một mét hai mươi phân, rộng hơn mười phân, úp xuống. Hai đầu "bàn đạp" được đục hai hai lỗ cách đầu mỗi bên khoảng mười phân để buộc dây cân ở giữa bản rộng. Dây buộc bằng đoạn thừng sợi to sao cho có độ dài nối hai đầu bàn đạp và căng lên đủ cao từ mặt đất đến khoảng giữa đoạn đùi của người sử dụng. Giỏ được đan theo vòng tròn tuần tự dưới đáy to, trên miệng thu nhỏ dần và "thắt cổ lọ" ở phần trên cùng để gắn hom giỏ. Hom hình nón ngược với "tua" mềm, nhọn, cách thưa, chụm về phía dưới, chỉ bỏ cá vào mà không cho cá thoát ra được nếu không cởi dây buộc. Vòng đáy lớn của hom vừa khít bên trong miệng giỏ và được buộc chặt khi đánh dậm. Hai "quai" giỏ được gắn một cái vào khoảng giữa thân, cái kia được gắn lệch lên phía trên miệng về phía trước để cho miệng rỏ chếch lên trên tuỳ tay thuận của người đeo. Dây thắt giỏ một đầu cố định vào "quai" giữa thân phía sau, đầu kia linh động chỉ được buộc với "quai" trước sau khi vòng qua eo của người đeo. Giỏ to đựng cá có thể được dăm, bảy cân, giỏ bé đựng cua được khoảng một, hai cân. Giỏ to được đeo bên sườn phía tay thuận của người dùng, giỏ bé ở sườn bên kia.
Phương tiện như vậy, nhưng phương pháp vẫn luôn là "kim chỉ nam" để đi đúng hướng và đạt kết quả cao. Tôi vẫn ngẫm và cả đời tôi vẫn cố gắng như vậy. Tôi vẫn luôn nhớ, có thể không chính xác lắm, một trong hai "panô" khẩu hiệu được treo bên "cánh gà" (hai bên của sân khấu) tại hội trường của trường tôi có trích câu nói của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đại ý: Nhà trường giỏi nhất là cung cấp cho học sinh phương pháp làm việc tốt nhất. Đã thành nghề thì cũng phải có phương pháp "chuyên môn", nghệ thuật chứ. Đánh dậm có yếu tố may mắn nhưng cũng có người tài, người dở. Thế mới có người được gọi là "sát cá", thường xuyên kiếm được nhiều, người khác thì được ít hoặc lúc được, lúc không.
Kể ra nhé!
Người đi đánh dậm, có khi được tổ chức thành đoàn đông vài chục người, có khi chỉ nhóm vài người, thậm chí đơn lẻ một, hai người. Vui nhất là những khi được đi đánh cá thuê theo đoàn đông người, vì vừa nhiều cá bắt "sướng tay" vừa được chia phần "của đồng chia ba, của nhà chia đôi", được một phần ba số cá đánh bắt được, có lần ông anh tôi còn giấu được hẳn con Trắm đen khoảng bảy cân khi đánh thuê ở đầm Quảng Cư, (xấu chơi đấy, nhưng không chỉ riêng ai). Có nhiều tốp, nhiều "cánh" khác nhau. Mỗi tốp, mỗi "cánh" ấy tìm kiếm được vùng đánh bắt riêng, hay quen gọi là "đường đất" riêng. Cái riêng có ấy cũng được giấu giếm, lộ ra có thể bị xâm chiếm, đánh lấn ngay. Đối với người cùng xóm, cùng làng, cạnh tranh không quyết liệt, nhưng khi lộ ra thì cùng kiếm, nể nang nhau mà mất "đường đất". Đối với người ngoài thì cũng quyết liệt "mạnh được, yếu thua" đấy. Cũng lẽ rất đơn giản, ít người kiếm thì còn cá, nhiều người kiếm một chỗ thì hết cá, thế thôi.
Cách đánh bắt thường có hai cách chủ yếu. Đánh "quây" được áp dụng với vùng rộng, nước tĩnh hơn, nhiều người tham gia. Đánh "càn" được áp dụng với kênh, mương nước chảy, ít người tham gia. Đánh "quây" là cách đánh phong toả, tuỳ theo người nhiều hay ít vòng tròn được tạo ra rộng hay hẹp khác nhau. Khi đánh thì lấn dồn dần vào trong đến hết khoảng trống bên trong, mà cũng chỉ lẫn từ từ thôi, nếu vỡ vòng thì cá thoát mất. Không biết hoặc "loàng nhoàng" lấn sâu, lấn nhanh vừa không được cá, vừa bị mắng ngay, "kỷ luật" ra phết đấy. Đánh "càn" là cách đánh với số người được chia thành đôi, dàn hàng ngang đánh từ hai đầu trên, dưới từng đoạn kênh, mương, dồn dần đến khi trên, dưới gặp nhau. Sau chuyển đoạn kênh, mương khác để "càn". Thường thì chuyển đoạn từ phía dưới lên phía trên dòng nước chảy. Khi chuyển đoạn sau thì những người đã đánh phía trên phải chuyển sang "càn" từ dưới lên và ngược lại, những người dưới chuyển "càn" từ trên xuống. "Quy tắc" đấy, bởi thường nước động thì cá ngược dòng, người "càn" phía trên xuống hay được cá hơn, không thì chẳng ai muốn “càn” suốt phía dưới dòng nước.
Kỹ thuật đánh dậm cũng thật "chi tiết", thật "linh hoạt". Về thao tác thì đơn giản thôi, tay thuận cầm cán dậm, nhao dậm cho đúng chỗ, chân thuận dậm bàn đạp, tay không thuận cầm và căng dây bàn đạp, chân không thuận đứng làm trụ. Dậm đặt đúng chỗ rồi, đặt và dậm bàn đạp "quét" theo một góc vuông hoặc góc nhỏ hơn từ xa vào đến sát cửa dậm, "nhấc" (nâng) dậm lên bằng hai tay và “bẻ” lật ngửa cửa dậm lên. Khi có cá thì cán dậm được chuyển sang tay không thuận để tay thuận bắt cá.
Người đánh bắt "ăn nhau" là ở độ "nhạy cảm" với từng trường hợp, từng đối tượng cá, khó là chỗ đó, biết vận dụng cách đạp, cách "nhấc" bàn đạp hay cách "nhấc" dậm chính xác, kịp thời. Nhận độ rung của dậm để biết có cá vào dậm mà "nhấc", không nhất thiết dậm bàn đạp vào hết khoảng trống. Tuỳ loại cá mà dậm có độ rung khác nhau, ví như "cá trắng" như Chép, Riếc, Trôi... thì dậm động nhanh, mạnh, "cá màu" như Trê, Quả, Lươn, Trạch... thì dậm chỉ rùng rùng thôi do cá trườn trong dậm. Gặp vùng có nhiều "cá trắng" thì dậm bàn đạp nhanh, lướt, "nhấc" dậm cũng nhanh, dứt khoát, nhưng chú ý, nơi nhiều cá Trôi thì dậm không được nhấc và “bẻ” ngửa hẳn vì như vậy cá vọt mất ngay do đặc tính phóng thẳng đứng riêng có. Nơi nhiều "cá màu" thì phải dậm bàn đạp đến tận cửa dậm và còn phải thêm động tác "hất" (giật dây) bàn đạp lên đồng thời với việc "nhấc" ngửa dậm, bởi nhiều khi cá trườn sát ngay bàn đạp mà chưa chạy vào dậm... Sự nhận biết vùng nào, nơi nào nhiều cá loại gì để có "tác nghiệp" mà ưu tiên thích ứng cũng tuỳ thuộc vào sự "nhạy cảm" của người "hành nghề", chỉ sau vài "nhát" (lần "nhấc") là biết ngay. Kỹ thuật đánh dậm còn phải tuỳ thuộc cả vùng nước nông hay sâu nữa. Nông không cần nói, nhưng có khi đánh ở những vùng nước sâu đến tận ngực, tận cổ (giỏ đeo ở cổ) vẫn đánh, tuy nhiên mất lực nhiều và hiệu quả thấp hơn.
Được cá rồi cũng phải biết cách bắt, có kỹ thuật. Cá to cỡ hàng cân đôi khi phải bắt bằng hai tay, tay thuận chặn đầu vào lòng bàn tay, các ngón tay bóp mang cá (nơi cá thở), tay không thuận bắt đuôi, rồi nhấc bỏ vào giỏ. Cá "vừa vừa" thì bắt một tay, tóm đầu. Cá nhỏ, thì khum tay vỗ nhẹ xuống phên dậm, cá nảy vào lòng bàn tay, bốc vào giỏ. Bắt cá Trê, cá Bò có "ngạnh" (vây nhọn dưới hai bên mang) phải chú ý lùa được ngón cái, ngón trỏ xuống dưới "ngạnh", đầu phía lòng bàn tay, rồi bóp chặt, lệch ra bị "ngạnh” đâm vào tay thì "buốt tận óc" ngay. Bắt lươn thì phải bắt bằng ba ngón tay giữa, ngón trỏ và ngón "đeo nhẫn" một phía, ngón giữa một phía, bóp chặt...Có "nghệ" cả đấy!
Sản phẩm thu được của nghề rất đa dạng. To thì có thể được cả cá Trắm, cá Mè to vài cân đến gần chục cân, bé thì đến từng con tôm, con tép. Quê tôi gọi tôm "càng" - to, tôm "gạo" - nhỡ, tôm "diu" - nhỏ (chỉ bắt được bằng cái diu), loài thân giáp. Tép được gọi với tất cả lác loại cá tạp như Đòng Đong, Cân Cấn, Mài Mại, Xăn Xắt (cá Cờ)..., không lớn được, và, cả các loại cá khác chưa lớn lẫn vào. Việc phân định "tôm" - "tép", cũng như "Châu Chấu" - "Cào Cào" thì "lắm chuyện", mỗi quê mỗi khác.
Việc chế biến sản phẩm ở quê tôi cũng nhiều kiểu lắm, ăn tươi thì canh, luộc, nướng, rán, kho, ướp thính, ăn gỏi..., dự trữ thì muối, phơi... đủ cả. Có điều, đã rán thì rán ròn tan, đã kho thì kho cho mục, đã nướng thì nướng bằng rơm, rạ, than củi cho thơm... ăn thì "quên chết", "có cá làm vạ cho cơm", ăn không biết no, "thủng nồi, trôi rế", "đầu cá Trôi, môi cá Mè" thì nhất.
Chuyện đến ăn, thì cũng vừa đến lúc chúng tôi chuẩn bị "vào mâm cỗ" ăn trưa gặp gỡ chúc tụng rồi.
Chuyện nghề quê tôi là thế, có khen, có chê, có vinh, có cả nhục nữa. Người làm nghề đánh dậm thì khổ lắm. Chỉ nói đến việc đầm mình ngâm bùn, nước, phơi da dưới nắng gắt cháy bỏng, mình trần trong gió "Bắc" rét "thấu tận xương", đủ thấy nhọc nhằn lắm rồi. Khi đánh dậm chẳng ai mặc áo bao giờ, chỉ có mỗi cái quần cộc thôi. Được cái, nhờ Trời, khổ nhiều thành quen, dù đen đủi tí nhưng ít khi ốm, nói thật như đùa, nếu có “sụt sùi”, hay khi chân bị sát phải mảnh sành, mảnh chai thì cứ đi đánh dậm lại nhanh khỏi hơn. Ôn lại chuyện "ngày xưa" không mấy ai trong chúng tôi thấy buồn, thấy khổ cả, mà giờ thì ai nấy còn có một chút "tự hào" về sự vượt qua gian khổ một thời ấy, nhất là với những người xa quê hay người thành đạt một chút.
Giờ đây và cả thời gian tới, nghề đánh dậm quê tôi còn ít người "hành", rồi cũng có thể mai một, mất đi, thì cũng rất tự nhiên thôi bởi nhu cầu mưu sinh mỗi thời mỗi khác. "Đường đất" đầm, ao thì được san lấp, trồng lúa thay vào. Nuôi cá được chuyên sâu, tăng sản tập trung với bờ xây, rào cất chắc chắn. Đồng ruộng sau thời gian dài được "hoá học hoá", đến "sống dai như đỉa" mà đỉa (loại ruột xoang sống dưới nước hút máu người và động vật) cũng chẳng sống nổi thì còn đâu cá cùng với tôm, cua.
Điều còn lại lớn nhất trong chúng tôi chính là tình người, tình quê hương bản quán!
Tôi tin, không chỉ quê tôi, nhiều vùng quê khác, tương đồng cũng có những buồn, vui muôn thuở như thế.
Để vui với cái nghề, cái nhớ, mỗi nghề có những câu ca dao, đồng giao riêng, ví như nghề mộc:
Lấy chồng thợ mộc sướng sao!
Mùn cưa nhóm bếp, phôi bào nấu cơm.
Phôi bào còn cháy hơn rơm,
Mùn cưa nhóm bếp còn thơm hơn trầm.
Nghề đánh dậm quê tôi cũng tình tứ, duyên thầm lắm nhé:
Ai về nơi ấy mà trông.
Có chàng đánh dậm "bờ" rung trống chèo.
Dù đen, dù khổ em theo.
Cơm ngon, canh ngọt, ai nghèo, mặc ai!
Thật xin lỗi nếu có ai đó phật lòng, nhưng với tôi và nhiều bạn hữu của tôi, chuyện để nhớ, để yêu, để vươn lên nhiều hơn trong cuộc sống hôm nay và tình người quê hương càng thêm gắn bó.
Xuân Mậu Tý - Tháng 1/2008
C.X.A.
* Ghi chú: Từ tết năm 2012 đến nay quê tôi đã và vẫn thường xuyên tổ chức Hội thi đánh dậm nhân ngày Tiệc làng Tích Lâm 16 tháng Giêng âm lịch. Đình làng Tích Lâm đã được xếp hạng Lịch sử Văn hóa từ năm 2013. Hội thi đánh dậm có lễ dâng Thành Hoàng Làng, có trao giải thưởng theo phân hạng cùng Giấy chứng nhận đàng hoàng. Vui , thiên liêng, cảm động!
Ban biên tập